Trong mấy style này, mỗi cái có một nhược điểm riêng
Với style 1, code ngắn gọn. Trong hầu hết mọi trường hợp thì code kiểu này cũng tốt. Tuy nhiên, nếu sau này mình muốn thay đổi hàm này, thêm một dòng lệnh nữa. Thì khi đó ta phải thêm {}
. Lúc nãy sẽ khá phiền và có thể dẫn đến lỗi không cần thiết. Code nhiều sẽ thấy cái này.
// style 1
if ( expression )
one-statement;
Với style 2, code tuân theo một quy tắc cố định mà ta đã quy ước trước, tương tự như style 1. Luôn phải thêm {}
nhưng code kiểu này sẽ đảm bảo sau này việc sử chữa sẽ tốt hơn.
// style 2
if ( expression ) {
one-statement;
}
Với style 2b, tương tự như style 2. Nhưng ở đây Đạt cố tình tab dấu ngoặc {}
chứ không phải vô tình nhé. Kiểu này không được hay lắm vì nó khó nhìn hơn.
// style 2b
if ( expression )
{
one-statement;
}
Với style 3, code kiểu này cũng ổn thôi. Nhưng nó sẽ gặp vấn đề như style 1, và còn một vấn đề quan trọng hơn là lúc debug sẽ rất khó chịu. Vì debug sẽ debug theo dòng, nên mình không biết là điều kiện này có đúng hay không, có thực thi statement không.
// style 3
if ( expression ) one-statement;
Vậy chọn cái nào là tốt nhất?