theo keyword của bác thì em tìm ra cái này
C++11
Rvalue reference và move constructor, move assignment
Khái niệm lvalue và rvalue không có gì xa lại đối với các lập trình viên C++, thường trong một câu lệnh gán:
<đối tượng> = ;
Thì <đối tượng> được gọi là lvalue (left value) còn được gọi là rvalue (right value) của biểu thức. Một cách logic thì đối tượng lvalue sẽ có giá trị thay đổi, còn đối tượng rvalue sẽ không thay đổi giá trị. Xét chi tiết hơn trong lệnh gán trên, trình biên dịch sẽ thực hiện tính giá trị biểu thức nằm bên trái của phép gán, sau đó gán giá trị tính được vào địa chỉ của giá trị lvalue bên phải của phép gán. Như vậy về bản chất phép gán trên có kết quả lưu vào tham chiếu (qua tên) tới một đối tượng. Tổng quát hơn, bất cứ một biểu thức nào (như lệnh gán, lời gọi hàm …) cần lưu kết quả vào một tham chiếu, nó sẽ là một lvalue. Ngược lại bất cứ biểu thức nào trả về giá trị dưới dạng một đối tượng thì đó chính là một rvalue. Vấn đề của các rvalue là chúng có thời gian tồn tại rất ngắn trong chương trình, do chỉ dùng cho các biến tạm, trung gian nên cần phải gán chúng cho các lvalue để có thể dùng lại sau này.
Khái niệm rvalue reference ra đời giúp kéo dài tuổi thọ của các đối tượng rvalue và hơn thế nữa, nó giúp cho việc lập trình hiệu quả hơn rất nhiều. Chúng ta hãy xem ví dụ đơn giản sau:
vector v1;
for(int i=0;i {
VerybigType bigObj;
….
v1.push_back(bigObj);
}
Khi đoạn mã lệnh trên được thực hiện, mỗi lần lặp môt bản sao của bigObj sẽ được tạo ra, và sau đó được dùng để tạo ra đối tượng v1[i] qua hàm copy constructor. Tiếp đến đối tượng bản sao cũng sẽ bị hủy. Có thể thấy rằng việc truyền đối tượng bigObj như vậy sẽ là một thao tác tốn thời gian (cấp phát bộ nhớ, copy dữ liệu) vì kích thước của nó có thể rất lớn. Rvalue reference giúp chúng ta giải quyết vấn đề này như sau:
vector v1;
for(int i=0;i {
VerybigType bigObj;
….
v1.push_back(std::move(bigObj));
}
Ở đây, C++11 thực hiện một kỹ thuật gọi là move semantics để tối ưu code chương trình với các đối tượng rvalue reference dựa trên nguyên lý làm giảm số thao tác cấp phát (allocate) và copy dữ liệu của các đối tượng có kích thước lớn. Trong ví dụ trên khi thực hiện câu lệnh v1.push_back(std::move(bigObj)), thay vì tạo ra một bản sao của bigObj và thực hiện hàm copy constructor của lớp VerybigType, trình biên dịch sẽ thực hiện chuyển (move, không phải copy) toàn bộ nội dung của bigObj cho đối tượng v1[i], với std::move(bigObj) là một rvalue reference, điều này giúp tránh được việc loại bỏ đối tượng bigObj khỏi bộ nhớ, cũng như việc thực hiện copy dữ liệu (qua phép việc gọi hàm copy constructor) từ bigObj sang v1[i]. Rõ ràng là một công đôi việc.
Để thực hiện kỹ thuật move semantics, các lớp cần cài đặt hai hàm: move constructor và move assignment operator với prototype như sau:
::( && rhs); // C++11 move constructor
& ::operator=( && rhs); // C++11 move assignment operator
Trong đó “&&” là cú pháp khai báo một rvalue reference. Dù có sự khác nhau về cách thức thực hiện và ý nghĩa, nhưng hai hàm này đều có điểm chung là tham số đầu vào là một rvalue reference và đối tượng được tham chiếu đến sẽ bị loại bỏ sau khi dữ liệu của nó được chuyển (move) cho đối tượng nhận giá trị trả về của hàm. Hầu hết các lớp chứa của thư viện STL C++11 (trừ lớp std::array) đều cài đặt hai hàm trên.