Mình mới học xong week 3, cảm giác tuần này học được nhiều thứ hơn tuần 2 (có thể do tuần 2 mình học trong lúc bị đau nên không tiếp thu được hết). Học xong từ tối qua mà muộn quá nên đi ngủ luôn, sáng mới dậy viết review.
Tổng kết week 3: Procrastination (phân tâm, mất tập trung) and Memory
Tuần 3 nói về các chủ đề chính sau:
- The relationship between Procrastination and habit
- Harnessing habit (thay đổi, chỉnh sửa thói quen)
- To-do list
- Memory
#The relationship between Procrastination and habit
Chúng ta đều biết khi đang làm việc/học tập mà bị xao nhãng sẽ dẫn tới việc giảm năng suất làm việc 1 cách tồi tệ. Hẳn đôi lúc chúng ta cũng trải qua việc đang code hăng say thì có người chat facebook, và thế là nhanh thì 10’, chậm thì cả tiếng, bạn mới quay lại để tiếp tục công việc của mình. Cụ thể hơn, các thói quen xấu (như lướt fb khi làm việc, hay là đang code thì quay qua nói chuyện,…) thường bắt đầu từ việc bị xao nhãng.
Các thói quen xấu này thực sự rất khó để giải quyết. Các bạn có thể sử dụng ý chí của mình để phá bỏ các thói quen này, tuy nhiên không phải ai cũng là người ý chí ngút trời, và chúng ta khôgn thể giữ ý chí mạnh mẽ hừng hực như vậy cả ngày, cả tuần, cả tháng được. Có 1 cách hữu hiệu hơn để đối phó vấn đề nay, là tìm cách thay đổi thói quen.
Để thay đổi thói quen 1 cách hiệu quả, trước hết chúng ta cần biết 1 số đặc điểm về thói quen. Khi thói quen xảy ra, nó thường hoạt động theo chu trình sau:
-
The cue: tín hiệu, thứ kích hoạt thói quen, ví dụ như bạn nghe tiếng tin nhắn sẽ tạo thói quen check dt; hay như cứ 11 rưỡi bạn sẽ cảm giác đói bụng và đi ăn cơm.
-
The routine: thứ bạn thường làm 1 cách thuận tay khi the cue đã được kích hoạt
-
The reward: thứ khiến bạn tiếp tục thực hiện thói quen; vd như khi check fb lúc làm việc, bạn sẽ cảm thấy thật thoải mái đầu óc, do đó dù biết khong tốt nhưng bạn cứ làm mãi.
Trong bài còn có the belief nhưng cá nhân mình thấy 3 cái trên mới là 1 chu trình khép kín và hoạt động mà bạn chẳng cần tin tưởng gì cả, nó hoạt động 1 cách rất là vô thức.
—> Tóm lại, để có thể đối phó với việc bị xao nhãng trong lcs học tập, làm việc, bạn có thể thay đổi các thói quen này để chuyển thành các thói quen hữu ích hơn với bạn.
Harnessing habit
Thói quen của chúng ta có thể chia ra thành thói quen tốt, thói quen xấu, hoặc vừa tốt vừa xấu. Mục tiêu của chúng ta, đương nhiên là giảm thiểu số thói quen xấu, và tăng số thói quen tốt. Điều này có thể đạt được nhờ việc thay đổi thói quen từ xấu thành tốt, hoặc loại bỏ thói quen xấu, luyện tập thói quen tốt (dù cách thứ 2 sẽ mất nhiều công sức hơn). Như chúng ta đã nhắc ở trên, 1 thói quen thường theo chu kỳ 3 bước, chúng ta sẽ xem xét mỗi bước có thể thay đổi như thế nào để tạo lập thói quen tốt:
-
Change the cue: 1 cue (tín hiệu) sẽ phát ra khi gặp 4 thông tin sau: location (địa điểm), time (thời gian), how we feel (cảm xúc cá nhân) và reaction (phản ứng của cá nhân với thông tin nào đó). Có những thứ tín hiệu chúng ta không thể thay đổi hay né tránh, vd như thời gian, reaction (cảm giác đói, lo lắng,…); nhưng cũng có những thứ chúng ta có thể thay đổi như địa điểm (bằng việc trang trí, làm quen địa điểm,…) hay reaction (vd phản ứng khi nghe tiếng tin nhắn - ta tắt tiếng tin nhắn đi, như vậy sẽ không còn gặp phản ứng khi gặp tiếng tin nhắn nữa). Điều này cũng là cách thay đổi the cue nhằm giảm thiểu thói quen xấu: hoặc chúng ta thay đổi the cue, hoặc chúng ta sẽ cố gắng để the cue là thứ kích hoạt thói quen tốt
-
the routine: hình bên dưới là 1 ví dụ cụ thể cho việc thay đổi routine quan trọng như thế nào trong việc thay đổi thói quen. Như vừa nhắc ở phần trên, có những the cue không thể/khó thay đổi, như vậy, hữu hiệu nhất là chúng ta sẽ thay đổi routine. Hầu hết các routine đều có thể thay đổi dễ dàng, bằng việc lên plan hợp lý. 1 vd của cá nhân mình, là trước đây, khi mình về phòng, mình thường bật máy tính và ngồi nghịch điện thoại khoảng 15 - 30’, rồi mới đi tắm; những khoảng thời gian ngắn như vậy, thường mình chưa kịp tập trung làm gì cả. Nay với the cue là về phòng, mình sẽ chạy vào tắm luôn, như thế mình đã tiết kiệm được 1 khoảng thời gian vô ích kha khá. Nếu mỗi ngày rút được 2 - 3 thói quen xấu như vậy, là mình có thêm khoảng 1h mỗi ngày rồi.
- Reward: hãy tự thưởng cho mình những thứ hợp lý, nhưng chú ý hãy thưởng chỉ sau khi đã hoàn thành xong routine. Vd như bạn muốn thay đổi thói quen hay lướt facebook trong lcus làm việc, hãy đổi thành làm việc 30’ rồi lướt facebook, bởi thông thường bạn lướt facebook không lâu, nhưng tần suất quá nhiều nên gây xao nhãng công việc. Với cách thay đổi mới này, bạn vẫn cảm thấy không khác gì nhiều, nhưng năng suất lao động tăng cao rõ rệt ^^.
To-do list
Trước khi đi vào nội dung phần này, mình sẽ nói qua về cách lên kế hoạch: nên lên đầu việc theo product (sản phẩm) hay process (quá trình)? Mục này trong bài học nằm trước phần Harnessing the habit nhưng mình chuyển về phần này vì mình thấy thế hợp lý hơn ^^.
Có 1 thực tế, chúng ta hay lên lịch làm việc theo kiểu: hoàn thành X trước deadline Y, tuy nhiên, thường xuyên chúng ta không thể follow lịch trình đã đặt trước. Một trong các lý do, là khi thấy đầu việc quá to (hoàn thành product), bộ não sẽ cảm thấy khó chịu (rất tự phát trong bộ não thôi), do đó dễ sinh ra procrastination. Thay vào đó, chúng ta có thể cố gắng để tạp trung làm việc trong 1 khoảng thời gian, như vậy sẽ đánh lừa bọ não và giúp chúng ta ít bị procrastination hơn. Kỳ thực, ý ghĩa của phần này là chúng ta không nên để đầu việc quá to trong to-do list.
To-do list luôn là thứ rất hữu ích.Mình sẽ không nói tới tầm quan trọng của nó ở đây, vì nó quá hiển nhiên rồi Trong khoá học có nhắc tới việc thực hiện daily-list jobs, mình cảm thấy khá thú vị nên sẽ viết ra những điểm đáng chú ý ra:
-
nên thực hiện daily-list jobs trước khi đi ngủ. Như các phần trước có nhắc tới, trước khi đi ngủ chúng ta sẽ tiến vào diffuse mode, giúp bộ não có thể liên kết các thứ lại với nhau. Khi lên daily-list jobs trước lúc đi ngủ, bộ não sẽ tự động ghi nhớ nó lại, giúp ngày hôm sau chúng ta có thể dễ dàng nhớ tơi snhwngx việc phải làm hơn.
-
liệt kê các công việc đơn giản, không nên liệt kê các đầu việc quá lớn: lý do mình có nhắc tới ở trên.
-
set quitting time: bạn nên đặt thời gian để dừng công việc, 1 phần là để đánh giá năng suất haonf thành và giúp lên kế hoạch tốt hơn; phần nữa là tạo cảm giác nghỉ ngơi cho bộ não. Tuy nhiên với 1 người chuyên làm việc ban đêm như mình thì đặt quitting time hơi khó :)).
-
eat the frog first: hãy cố gắng hoàn thành công việc khó khăn nhất đầu ngày, khi bạn có tinh thần và thể lực sung mãn nhất ^^. CHi tiết hơn bạn có thể đọc ở đây: http://www.lifehack.org/articles/productivity/eat-the-frogs-first-a-guide-to-prioritizing.html
-
note what you’ve done / have not: điều này giúp bạn đánh giá năng suất lao động, và giúp bạn có thể lên kế hoạch tốt hơn.
Memory
Phần này khá tương tự phần ở tuần 1, có 1 vài điều mới nhưng không quá đáng kể nên mihf không viết ra nữa :v thực ra 1 phần do hơi lười :")
Ý kiến về tuần 3
Có những cá nhân khiến mình cảm thấy rất khâm phục và ngưỡng mộ về năng suất lao động cao đến kinh ngạc, khả năng học tập nhanh chóng và mình ngưỡng mộ nhất là những người làm việc đa ngành. Mấy tuần nay, trên daynhauhoc có nhiều bài về Elon Musk, cũng đúng thôi, bởi Tesla motor mới cho ra đời Model 3, còn tên lửa Falcon 9 cũng mới tiếp đất thành công lần đầu tiên 9tieeps nước thì đúng hơn ^^ hạ cánh trên cái gì đó giữa biển ý). Nếu đọc về Elon Musk, thì đây là 1 người đàn ông có sức làm việc bền bỉ, nhưng đồng thời cũng có năng suất cao đến kinh ngạc (hãy tưởng tượng 1 người quản lý 2 công ty làm việc 90h/tuần, như vậy mỗi công ty chỉ dành ra khoảng 45h/ tuần - con số này hoàn toàn không hề lớn). Những con người như vậy, chắc chắn họ cũng có những bí quyết riêng, dù bản thân họ có tự đúc kết ra hay không.
Khóa học này dạy chúng ta 1 số bí quyết như vậy theo 1 cách có hệ thống và khoa học. Tôi tin tưởng rằng nếu nghiêm túc học khóa này, bạn có thể nâng cao năng suất khoảng 25% trở lên, đây là 1 con số tuyệt vời kể cả với các lớp học đóng phí đi chăng nữa.